TĂNG CƯỜNG NHẬN THỨC VỀ TÁC HẠI CỦA CÁC CHẤT MA TÚY TỔNG HỢP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH VÀ KIỂM SOÁT (kỳ 2)

IV. Tình hình sử dụng trái phép các loại ma túy tổng hợp

Đến cuối năm 2016, theo thống kê của 63 tỉnh, thành phố, cả nước có trên 210.000 người nghiện ma túy. Trong đó, số người sử dụng các loại ma túy tổng hợp chiếm khoảng gần 50%. Việc áp dụng Thông tư liên tịch 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA, ngày 9/7/2015 về quy trình xác định tình trạng nghiện còn nhiều bất cập do một số địa phương thiếu nhân viên y tế được tập huấn, cấp chứng chỉ (điều kiện bắt buộc để xác định tình trạng nghiện), hoặc người nghiện ma túy không tự giác phối hợp khai báo hay có những dấu hiệu không điển hình. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa phương, xu thế chuyển từ sử dụng heroin sang ATS đang trở thành một nguy cơ lớn. Người nghiện ma túy có dấu hiệu tâm thần diễn ra ngày càng nhiều, đe dọa trật tự – an toàn xã hội ở nhiều địa phương. Theo báo cáo của 45 tỉnh, thành phố, chỉ riêng trong các năm 2015- 2016 đã ghi nhận có tới 7.287 vụ “ngáo đá”.

 Một số vụ điển hình:

– Khoảng 14h30 ngày 8/12/2016, tại xã Thụy Lương, Thái Thụy, Thái Bình, Khúc Ngọc Chinh (1972) trong tình trạng “ngáo đá” đã chửi bố bố đẻ, nhốt con đẻ rồi đổ xăng đe dọa đốt nhà.

– Ngày 28/12/2016, tại cầu Bằng Giang, thành phố Cao Bằng, đối tượng Nguyễn Trường Thành sinh năm 1979, tạm trú tại Tổ 11, phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng trong cơn “ngáo đá” đã dùng dao chém vào đầu ông Tô Ngọc Thái sinh năm 1959 lấy đi một xe máy nhãn hiệu Dream.

– Ngày 14/2/2015, Trần Văn Chiến (1972), trú quán tại Xuân Phú, Yên Dũng, Bắc Giang dùng dao đâm chết 2 người cùng thôn do tác động của ma túy tổng hợp.

– Dương Văn Quy (1984) trú quán tại Đan Hội, Lục Nam, Bắc Giang bị “ngáo đá” dùng búa sắt đập chết anh Vũ Văn Tráng (1970) là người cùng thôn.

V. Tác hại của ma túy tổng hợp

Ở giai đoạn đầu khi mới sử dụng, các chất thuộc nhóm ATS cho người ta cảm giác hưng phấn, tỉnh táo, khỏe mạnh, tăng ham muốn tình dục do vậy đáp ứng nhu cầu của một số nhóm đối tượng, đặc biệt là giới trẻ và những người đảm nhiệm những công việc nặng nhọc như: lái xe tải đường dài, thuyền viên, công nhân các khu công nghiệp, công nhân tại các hầm mỏ, v.v.. Tuy nhiên, các nghiên cứu được tiến hành trên các đối tượng, giới và trong các bối cảnh sử dụng khác nhau cho thấy: Sau một thời gian dài sử dụng methamphetamin (hồng phiến, hoặc ma túy đá) người sử dụng sẽ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, dễ cáu giận và trầm cảm, mất khả năng tập trung, đau cơ, chân tay run rẩy, thèm ăn và có mong muốn tự tự, mất ngủ hoặc ngủ li bì. Một số người còn gặp phải dấu hiệu chảy nước mũi, chảy máu mũi, đau cơ, khớp. Việc sử dụng Methamphetamin liều cao còn gây ra tình trạng đau ngực, tăng huyết áp, mạch đập nhanh hoặc loạn nhịp tim, nguy cơ đột quỵ, thiếu máu não, cuối cùng dẫn đến tử vong. Nhiều người còn phản ánh các triệu chứng rối loạn tâm thần tạm thời, hoặc cảm giác hoang tưởng, ảo giác.

Sử dụng methamphetamin trong thời gian dài sẽ có cảm giác như đang có kiến hoặc côn trùng bò dưới da. Methamphetamin có thể là nguyên nhân hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng trầm cảm sẵn có ở người sử dụng hoặc các bệnh tâm thần như tâm thần phân liệt, v.v… Ngày càng phát hiện nhiều bằng chứng về mối quan hệ giữa hành vi sử dụng methamphetamin mạn tính với những thay đổi trong hệ thần kinh mặc dù còn nhiều điểm chưa rõ trong sự thay đổi chức năng của hệ thần kinh. Đối với một số người, methamphetamin gây giảm trí nhớ, giảm sự tập trung và các chức năng về nhận thức khác. Khi ngừng sử dụng methamphetamin thì các rối loạn về hệ thần kinh có thể hồi phục. Với liều cao, methamphetamin có thể gây ra những tổn thương lâu dài ở phần cuối các dây thần kinh, phần các tế bào thần kinh serotonin và dopamine. Dấu hiệu tổn thương này thường xuất hiện muộn trong cuộc đời của người sử dụng. Cùng với tuổi tác sẽ xuất hiện các chứng bệnh tương tự như bệnh Pakingson. Một nghiên cứu trong nhóm người có tiền sử mắc các rối loạn tâm thần đã chỉ ra rằng, những người mắc các bệnh này khi sử dụng methamphetamin có tỷ lệ tự tử cao hơn 8 lần so với những người mắc bệnh song không sử dụng Methamphetamine. Chính tình trạng hoang tưởng, mệt mỏi hoặc trạng thái trầm cảm đã cản trở những người nghiện methamphetamin tiếp cận các dịch vụ điều trị. Đối với phụ nữ, việc sử dụng methamphetamin gây cho họ có cảm giác đau đớn hoặc rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Hệ quả nghiêm trọng hơn là có thể những người này mất khả năng thụ thai hoặc có thể thụ thai mà không sớm nhận ra các dấu hiệu đó. Bên cạnh các rối loạn tâm thần thường gặp thì việc sử dụng ATS trong thời gian dài sẽ hủy hoại nghiêm trọng thể chất, làm cho người sử dụng suy kiệt so mất cảm giác thèm ăn, do tăng vận động. Đồng thời, các bộ phận như răng, miệng thường bị lở loét, v.v..

So với nhóm các chất dạng thuốc phiện, tử vong do nghiện methamphetamin gây ra ít nghiêm trọng hơn. Một nghiên cứu ở Úc chỉ ra rằng, tử vong thuần túy do methamphetamin gây ra chỉ chiếm 17% tổng số ca tử vong do ma túy song sự kết hợp giữa methamphetamin với các loại ma túy khác lại gây ra tới 51% tổng số ca tử vong. Các loại ma túy thường được người nghiện sử dụng kết hợp đó là heroin, thuốc ngủ, các loại thuốc chống trẩm cảm. Mức độ ngộ độc do methamphetamin cũng rất khác nhau. Trong khi nhóm các chất dạng thuốc phiện gây ức chế hệ hô hấp, sau đó là trụy tim. Rượu và methamphetamin làm tăng huyết áp, trụy tim mạch. Chính Methamphetamin đã che giấu tác động của rượu và heerroin lên cơ thể làm cho người sử dụng không đánh giá đúng liều lượng ma túy do mình sử dụng. Điều đó đồng nghĩa với việc đánh giá sai lệch mức độ ngộ độc và dẫn đến quá liều. Khi sử dụng đồng thời cocain và methamphetamin sẽ làm tăng khả năng rối loạn hệ tuần hoàn cả từ hai loại ma túy này. Tóm lại, bên cạnh các chứng bệnh tâm thần thì các rối loạn về tim mạch là nguyên nhân đáng kể gây ra tử vong trong số những người sử dụng methamphetamin.

Sử dụng methamphetamin bằng hình thức tiêm chích cũng đặt ra những nguy cơ tương tự như đối với tiêm chích heroin. Đó là, nguy cơ lây nhiễm HIV, Viêm gan B, C, viêm nội tâm mạc, nhiễm khuẩn máu, áp xe, xẹp ven, v.v….

Đối với những người sử dụng bằng hình thức hít, hút, tình trạng mất nước do methamphetamin gây ra thường làm cho môi bị nứt nẻ, chảy máu. Do vậy càng làm tăng nguy cơ bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu khi những người này sử dụng chung các ống hút với nhau (nhất là bệnh viêm gan C). Bên cạnh đó, sử dụng methamphetamin bằng cách hút, hít có thể còn gây ra các vết bỏng trên tay, mặt của người sử dụng hoặc nhiễm độc từ các dụng cụ hút hít (ví dụ như người sử dụng methamphetamin dùng các lọ chứa sơn để đốt ma túy).

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các tác hại liên quan đến methamphetamin gây ra trong lĩnh vực tình dục, đặc biệt là nhóm tình dục đồng giới nam là rất đáng lưu tâm. Đó là sự liên quan giữa methamphetamin và HIV. Nhiều người trong nhóm này cố tình sử dụng methamphetamin để tăng khoái cảm về tình dục. Người sử dụng methamphetamin trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều nguy cơ lây truyền các bệnh qua đường tình dục. Khi sử dụng methamphetamin, những người này thường bỏ qua các cảnh báo về an toàn trong quan hệ tình dục và không sử dụng bao cao su, v.v… Mặt khác, do tác động của methamphetamin mà khả năng tiết các chất nhờn đã giảm đi do vậy càng làm tăng nguy cơ trầy sước hoặc rác trực tràng hoặc âm đạo trong quá trình giao hợp. Đối với những người đang bị nhiễm HIV, kể cả những người đang tham gia chương trình điều trị bằng ARV, methamphetamin sẽ làm tăng khả năng sinh sản của vi rút. Methamphetamin làm thay đổi cơ chế chuyển hóa của các thuốc kháng HIV. Những người nhiễm HIV lại có quá trình sử dụng methamphetamin lâu dài rất có nguy cơ bị mắc các bệnh liên quan đến hệ bạch huyết.

Đối với phụ nữ đang mang thai, Methamphetamin có nguy cơ gây sứt môi hoặc bệnh tim cho thai nhi. Trong các nghiên cứu đối với người sử dụng đồng thời nhiều loại ma túy kèm với methamphetamin, trẻ sơ sinh thường thiếu cân, đẻ non. Tỷ lệ bị băng huyết trong quá trình sinh con ở phụ nữ nhóm này thường cao hơn nhóm không sử dụng ma túy. Người nghiện methamphetamin thường thiếu dinh dưỡng, sinh hoạt thất thường, ít quan tâm đến dịch vụ thăm khám thai do vậy cũng chịu ảnh hưởng không tốt đến thai nhi.

Các nghiên cứu trên một số nhóm đối tượng cụ thể cho thấy: nhóm trẻ lang thang, cơ nhỡ; trẻ em bỏ học, thất học; nhóm trẻ lao động, kiếm sống trên đường phố; nhóm trẻ bị lạm dụng tình dục. L‎ý do sử dụng ATS theo các em là để giúp làm giảm các cảm giác khó chịu như đói, lạnh, cảm giác ầm ỹ và ngột ngạt ngoài đường phố, giúp vượt qua nỗi sợ hãi liên quan đến các công việc nguy hiểm. Những thanh niên có khuynh hướng tình dục không bình thường coi việc sử dụng ATS như một phương cách để giải tỏa căng thẳng về tinh thần khi phải đối mặt với sự kỳ thị từ người thân, gia đình và một phần do dễ tiếp cận các loại ma túy này ở nơi vui chơi giải trí. Ma túy tổng hợp cũng được một số sinh viên sử dụng trong các kỳ thi đấu thể thao và các kỳ thi văn hóa hoặc một số nữ sinh sử dụng nhằm giúp giảm cân và chống chứng bệnh béo phì.

Tuy nhiên, sự nguy hại nhất phát sinh khi người sử dụng các loại ma túy tổng hợp đã bị nghiện chúng. Đặc trưng bằng hội chứng: loạn thần do methamphetamine mà giai đoạn tiếp theo là bệnh tâm thần phân liệt, đặc trưng bởi các dấu hiệu: lẫn lộn về ý thức, mê sảng, hoang tưởng. Kèm theo các cảm giác khó chịu như có côn trùng bò trên da. Ở mức độ hoang tưởng nghiêm trọng, người sử dụng ATS sẽ có các hành vi muốn tự sát hoặc tấn công người khác.

Ecstasy (thuốc lắc) làm thay đổi tâm lý với dấu hiệu như: đầu óc trống rỗng, trí nhớ suy giảm. Hội chứng được biết đến với tên “Hội chứng Serotonin” đặc trưng bằng việc thân nhiệt người sử dụng “thuốc lắc” tăng đột ngột, có thể dẫn đến tử vong cho người sử dụng được giải thích (có thể do kết hợp với môi trường đông người, nhảy múa lâu, mất nước).

Mặc dù gây ra tác hại khôn lường như vậy nhưng các khảo sát do Cơ quan phòng, chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc phối hợp với một số cơ quan chức năng của Việt Nam tiến hành lại cho thấy còn rất nhiều người mơ hồ về tác hại của các chất ma túy tổng hợp. Không ít thanh niên có quan niệm đơn giản đó chỉ là các chất tăng lực, tạo cảm hứng cho các cuộc chơi mà không gây nghiện. Sự thiếu hiểu biết và chủ quan như vậy đã làm một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng sử dụng các loại ma túy tổng hợp có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, còn gặp không ít khó khăn trong việc phân biệt đâu là người nghiện các chất ma túy tổng hợp, đâu là người mới sử dụng do còn thiếu các tiêu chí phân loại và do giá thành que thử để phát hiện loại ma túy này trong nước tiểu còn khá cao so với que thử để phát hiện các loại ma túy truyền thống. Ngay trong trường hợp phát hiện được người nghiện ma túy tổng hợp thì đưa đi điều trị ở đâu và theo phác đồ nào còn đang là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Gần 100 cơ sở cai nghiện tập trung hiện có trên cả nước hiện chỉ sẵn sàng tiếp nhận người nghiện heroin chứ chưa sẵn sàng tiếp nhận người nghiện ma túy tổng hợp. Một số bệnh viện lớn như Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh Viện Bạch Mai) là có điều kiện và kinh nghiệm để điều trị cho nhóm đối tượng này thì quy mô lại không tương xứng.

Chính vì những khó khăn như vậy nên trong khi chờ đợi những hướng dẫn phác đồ điều trị của cơ quan chuyên môn, công tác tuyên truyền vẫn là giải pháp mang tính quyết định.